Kinh tế số là nguồn lực tăng trưởng mới
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang phát triển mạnh mẽ, kinh tế số ngày càng có vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế mỗi quốc gia, đặc biệt trong quá trình phục hồi hậu COVID-19. Xu hướng số hóa nền kinh tế và các hoạt động xã hội đang diễn ra rất nhanh ở nhiều nước, đặc biệt là một số nước đi đầu, nước đang phát triển. Năm 2016, nền kinh tế số toàn cầu chiếm khoảng 15,5% GDP của thế giới, dự kiến trong 10 năm tới sẽ nâng lên tới mức 25% GDP. Hiện tại, một nửa dân số thế giới đã kết nối trực tuyến, một phần ba tham gia mạng xã hội. Kinh tế số tạo ra dư địa mới để tăng quy mô và tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế, tạo ra phương thức sản xuất và cấu trúc kinh tế mới.
Mô hình tăng trưởng kinh tế truyền thống trên cơ sở chủ yếu là phát triển theo chiều rộng, gia tăng các yếu tố đầu vào truyền thống đã đến tới hạn. Kinh tế số cùng với các nguồn lực truyền thống sẽ tạo ta các nguồn lực phát triển mới là tài nguyên số, nguồn lực số. Hơn nữa, kinh tế số mở ra dư địa cho tăng trưởng bền vững hơn, bởi công nghệ số sẽ mang lại những giải pháp “xanh” hơn, sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên, và xử lý các vấn đề ô nhiễm môi trường một cách tốt hơn.
GS. Trần Thọ Đạt – Chủ tịch Hội đồng Trường, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Kinh tế số Việt Nam sẽ chạm mốc 43 tỷ USD vào năm 2025
Kinh tế số đang mở ra cơ hội lớn cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, là động lực phát triển quan trọng để đưa nước ta có thể sớm trở thành quốc gia có công nghệ phát triển. Với dân số gần 100 triệu người, Việt Nam được coi là là một nước có tiềm năng tăng trưởng kinh tế số mạnh mẽ, sẽ trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức khá trong khu vực ASEAN. Trong thời gian qua, nền kinh tế đã ghi nhận sự xuất hiện xu hướng số hóa ở nhiều lĩnh vực, các ngành kinh tế, từ ngân hàng, tài chính, thương mại, đến giáo dục, y tế…
Theo báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á năm 2019″ do Google, Temasek và Bain công bố năm 2019, Việt Nam nằm trong khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế số năng động bậc nhất thế giới. Nền kinh tế số Việt Nam năm 2019 trị giá 12 tỷ USD (đóng góp 5% GDP quốc gia trong năm 2019), cao gấp 4 lần so với giá trị của năm 2015 và dự đoán chạm mốc 43 tỷ USD vào năm 2025. Về tốc độ tăng trưởng, cùng với Indonesia, Việt Nam đang dẫn đầu trong khu vực Đông Nam Á với trung bình 38%/năm, so với 33% của cả khu vực tính từ năm 2015.
Theo thống kê của Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công Thương), trong 10 năm qua, kinh tế số Việt Nam đã phát triển không ngừng về cả nền tảng hạ tầng lẫn thị trường kinh doanh. Hiện tại, Việt Nam có khoảng 64 triệu người sử dụng Internet, 57% dân số có tài khoản mạng xã hội. Theo Báo cáo “Tương lai nền kinh tế số Việt Nam hướng tới năm 2030 và 2045” (Tổ chức Data61 – Úc), GDP Việt Nam có thể tăng thêm hàng năm từ 0,38 đến 1,1% tùy vào các kịch bản khác nhau của chuyển đổi số. Hiện tại, tác động của kinh tế số đến năng suất lao động tổng thế và năng suất theo ngành còn hạn chế do kinh tế số mới trong giai đoạn triển khai ban đầu. Tuy nhiên, trong thời gian tới, với việc đẩy mạnh thực hiện Chiến lược Chuyển đổi số quốc gia, tiềm năng tác động của kinh tế số đến năng suất lao động sẽ rất lớn.
Động lực thúc đẩy kinh tế số
Những năm gần đây, các hoạt động kinh tế số đã có sự tăng trưởng nhanh chóng và được Đảng, Chính phủ quan tâm, ưu tiên phát triển. Tháng 9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2025, nền kinh tế số Việt Nam sẽ đạt 20%, và đến năm 2030 đạt 30% GDP, mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc, mọi người dân được truy cập Internet băng thông rộng với chi phí thấp, hoàn thành xây dựng chính phủ số, hoàn thành một số chuỗi đô thị thông minh tại các khu vực kinh tế trọng điểm, từng bước kết nối với mạng lưới đô thị thông minh trong khu vực và thế giới. Ngày 3/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu kép là vừa phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu, với một số chỉ số cơ bản và cụ thể.
Năm 2021 là năm khởi đầu của việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025 và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm, là năm đẩy mạnh phục hồi kinh tế và bứt phá sau đại dịch. Để khai thác tiềm năng, phát triển kinh tế số, đạt được mục tiêu kinh tế số chiếm tỷ trọng 20% GDP vào năm 2025, xây dựng nền tảng để kinh tế số phát triển, bắt đầu tăng tốc trong năm 2021 và các năm tiếp theo, cần triển khai một số giải pháp sau:
Trước hết, sớm hoàn thiện khung thể chế, cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo phù hợp với các khuôn khổ pháp lý khu vực và toàn cầu để phát triển kinh tế số, đặc biệt là các mô hình và phương thức kinh doanh kiểu mới. Các chính sách về kinh tế số cần bảo đảm cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất trong triển khai và thực hiện các kế hoạch và chương trình về kinh tế số. Có chính sách khuyến khích phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển giao và ứng dụng các công nghệ mới, ưu đãi thuế cho các lĩnh vực phần mềm, khu công nghệ cao, công viên phần mềm, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, phát triển, kinh doanh công nghệ mới, thúc đẩy phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ở Việt Nam.
Gia tăng đầu tư, đặc biệt là đầu tư công nhằm nâng cấp đồng bộ kết cấu hạ tầng và dịch vụ số thiết yếu và rộng khắp, bao quát mọi ngõ ngách của nền kinh tế và đến từng công dân, triển khai băng thông rộng chất lượng cao trên phạm vi toàn quốc, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh mạng, nâng cấp hạ tầng các ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu một cách đồng bộ, hiện đại, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp được sử dụng những tiện ích do kinh tế số mang lại. Chính phủ cần tạo dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật số để các doanh nghiệp hòa nhập và nắm bắt được xu hướng và thế mạnh của kinh tế số.
Nâng cao nhận thức về phát triển nền kinh tế số và chuyển đổi số quốc gia, qua đó có sự chuẩn bị tốt nhất cho thích ứng xu hướng phát triển này đối với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Nhờ nền tảng thương mại điện tử, doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ có thể đến với những thị trường lớn cả trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt cơ hội, tối ưu hóa mô hình kinh doanh, phát triển kỹ năng mới cho từng cá nhân và tổ chức, sớm triển khai tích hợp công nghệ số hóa, thúc đẩy phát triển những giải pháp sản xuất và kinh doanh dựa trên số hóa, tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, năng cao năng lực quản trị phù hợp với những mô hình sản xuất, kinh doanh và hợp tác mới.
Kinh tế số Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh và dự báo sẽ đạt 43 tỷ USD vào năm 2025.
Khi tham gia vào thị trường lao động trong nền kinh tế số, người lao động phải đổi mới để thích nghi với các kỹ năng, kiến thức và các phương thức kinh doanh truyền thống trước đây nay dần chuyển sang môi trường số. Nhìn dài hạn hơn, cần phát triển nguồn nhân lực theo hướng tăng cường năng lực tiếp cận và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển, thúc đẩy tư duy sáng tạo, đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo với việc thay đổi từ quản lý giáo dục, phương pháp dạy, giáo trình dạy và các môn học mới gắn với số hóa. Kỹ năng số cần được giới thiệu tới lứa tuổi trẻ hơn, từ cấp mầm non và nâng dần mức độ cho các lứa tuổi ở cấp độ học cao hơn. Triển khai các chương trình đào tạo, đào tạo lại kỹ năng lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số cho người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, giám đốc điều hành và đội ngũ quản trị các cấp của doanh nghiệp. Chương trình đào tạo nhân lực công nghệ thông tin cần đổi mới cập nhật các xu thế công nghệ mới như Internet kết nối vạn vật, trí tuệ nhân tạo, công nghệ robot, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên sớm tiếp cận lĩnh vực này, đẩy nhanh xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin.
Với tốc độ phát triển mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu, đặc biệt ở khu vực rất năng động là châu Á, kinh tế số đang tạo ra những cơ hội hiếm có để Việt Nam có thể tận dụng trong bứt tốc phát triển kinh tế đất nước, nhưng đồng thời cũng đặt ra các thách thức lớn mà nếu không vượt qua sẽ ngày càng tụt hậu. Kinh tế số được xác định là động lực phát triển quan trọng để đưa Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh trở thành quốc gia có công nghệ phát triển, là động lực tăng trưởng rất quan trọng trong những năm tới, góp phần gia tăng năng suất lao động, chuyển đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng.
Nhiều chuyên gia kinh tế đã nhận định rằng, phát triển kinh tế số và đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia là phương thức để vượt qua bẫy thu nhập trung bình, là cách thức để Việt Nam vẽ lên một tương lai phát triển không chỉ đơn giản là tiếp nối xu hướng của quá khứ mà là đưa nền kinh tế bước vào một quỹ đạo tăng trưởng mới mang tính bứt phá. Phát triển kinh tế số không chỉ là bài toán về công nghệ. Từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy vai trò rất lớn mang tính quyết định là yếu tố quản lý. Từ góc độ quản lý nhà nước, cần xây dựng, điều chỉnh chính sách để hỗ trợ kinh tế số phát triển, thông qua thiết lập một môi trường thể chế minh bạch, rõ ràng, thuận lợi, mang tính sáng tạo và đổi mới, nhờ đó Chính phủ có thể thúc đẩy một cách có hiệu quả và bảo đảm sự phát triển kinh tế số đạt mục tiêu mà Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra.
Nguồn: https://doanhnghiepvn.vn/chuyen-doi-so/kinh-te-so/viet-nam-kinh-te-so-nang-dong-va-tren-da-can-dich-43-ty-usd/20210208100032581