PHÒNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Số: 2055 /PTM-PC V/v góp ý Dự thảo Quyết định ban hành Quy định đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất (lần 2) |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày 10 tháng 9 năm 2019 |
Kính gửi: Sở Tư pháp tỉnh Cao Bằng
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhận được Công văn số 687/STP-NV1 ngày 26/8/2019 của Sở Tư pháp tỉnh Cao Bằng đề nghị tham gia ý kiến góp ý Dự thảo Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh (UBND) ban hành Quy định đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (sau đây gọi tắt là Dự thảo). Sau khi nghiên cứu dự thảo do Quý Sở gửi tới, VCCI có một số ý kiến như sau:
- Ý kiến chung
- Về sự cần thiết
Việc xây dựng Quy định đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất là để góp phần đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, bảo đảm tính công khai, minh bạch và công bằng và cũng là biện pháp quan trọng phòng chống tham nhũng, lợi ích nhóm trong công tác quản lý đất đai. Vì vậy việc ban hành Quy định này là cần thiết, phù hợp với quy định của Luật Đất đai và Luật Đấu giá tài sản.
- Về cách thức đưa ra các quy định
Việc xây dựng Quy định đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất có liên quan đến các quy định, quy trình đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất đã được quy định trong Luật Đất đai 2013, các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, đặc biệt là Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP ngày 14/4/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Tư pháp về tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất. Liên quan đến đấu giá tài sản còn có các quy định của Luật Đấu giá tài sản 2016.
Tuy nhiên, trong Quyết định của UBND cấp tỉnh không cần thiết phải nêu lại các quy định đã có trong các văn bản quy phạm pháp luật của cấp cao hơn mà chỉ nên quy định chi tiết hoặc phù hợp với những đặc thù của địa phương, song không được trái với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.
Về tổng thể, hầu hết nội dung Dự thảo là nhắc lại các quy định tại Luật Đất đai 2013, Luật Đấu giá tài sản 2016, Nghị định 43/2014/NĐ-CP, Thông tư 48/2017/TT-BTC và nhắc lại nhiều nhất là quy định của Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP (sau đây gọi tắt là Thông tư 14), nhưng có chỗ chưa chính xác.
Đề nghị Quý Cơ quan rà soát chỉ nên quy định chi tiết thêm hoặc quy định những vấn đề đặc thù của địa phương, hoặc nếu có trích dẫn thì làm tương tự như tại khoản 1 Điều 10 của Dự thảo.
- Về căn cứ pháp lý
Đề nghị Quý Cơ quan xem xét bổ sung các căn cứ sau vì có liên quan đến nội dung Dự thảo:
- Thông tư liên tịch số 88/2016/TTLT-BTC-BTNMT ngày 22 tháng 6 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ và trình tự, thủ tục tiếp nhận, luân chuyển hồ sơ xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai của người sử dụng đất;
- Thông tư số 48/2017/TT-BTC ngày 15 tháng 5 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chế độ tài chính trong hoạt động đấu giá tài sản.
- Các tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm thi hành Quyết định
Đề nghị Quý Cơ quan xem xét sửa Điều 3 của Dự thảo Quyết định cho đầy đủ hơn, thành: Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; Giám đốc các Sở: Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư, Tư pháp; Cục trưởng Cục Thuế tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cao Bằng, các huyện; Trung tâm Dịch vụ đấu giá tài sản tỉnh Cao Bằng, các doanh nghiệp đấu giá tài sản, Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất, Thủ trưởng các đơn vị và tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
- Một số quy định cần bổ sung
Đề nghị Quý Cơ quan xem xét bổ sung một số quy định liên quan tới đặc thù của địa phương, ví dụ như quy định cụ thể về thành phần của Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất trong các trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 5 Thông tư 14, do tại tỉnh miền núi như Cao Bằng sẽ có ít các tổ chức có chức năng bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
Một vấn đề cần lưu ý là giá trị quyền sử dụng đất phụ thuộc vào quy hoạch, hệ số sử dụng đất, mục đích sử dụng đất. Trong thực tế nhiều trường hợp khi sau khi đấu giá quyền sử dụng đất, người trúng đấu giá đề xuất được thay đổi quy hoạch tăng hệ số sử dụng đất hoặc thay đổi mục đích sử dụng đất từ đó làm gia tăng giá trị đất so với lúc đấu giá. Vì vậy, đề nghị cần có quy định chặt chẽ về vấn đề thay đổi quy hoạch đối với khu đất đấu giá, trường hợp thay đổi làm tăng quá 10% giá trị khu đất so với lúc đấu giá thì phải tổ chức đấu giá lại.
Về việc chậm giao đất sau đấu giá: nhiều trường hợp khi sau khi đấu giá quyền sử dụng đất, người trúng đấu giá chậm được giao đất làm ảnh hưởng đến phương án kinh doanh hoặc kế hoạch sử dụng, sản xuất kinh doanh của người trúng đấu giá. Vì vậy, cần có quy định về chế tài khi chậm giao đất cho người trúng đấu giá, ví dụ như: nếu người trúng đấu giá bị chậm được giao đất sau một thời gian nhất định thì phải được bồi thường bằng việc giảm tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất phải nộp… để bảo đảm công bằng cho người trúng đấu giá.
- Một số ý kiến cụ thể
- Đối tượng áp dụng (Điều 2)
Điều 2 của Dự thảo Quy định về đối tượng áp dụng, đã đề cập tới cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị tổ chức thực hiện đấu giá, đơn vị thực hiện cuộc đấu giá và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, tuy nhiên đề nghị bổ sung cho rõ hơn đối tượng “Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia đấu giá quyền sử dụng đất” (sau đây gọi tắt là người tham gia đấu giá quyền sử dụng đất).
Có thể tách ra làm 3 khoản:
- Cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về đất đai, đấu giá tài sản, thu tiền sử dụng đất và thuê đất; đơn vị tổ chức thực hiện việc đấu giá, đơn vị thực hiện cuộc đấu giá;
- Các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc đấu giá;
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia đấu giá.
- Đơn vị tổ chức thực hiện việc đấu giá quyền sử dụng đất, đơn vị thực hiện cuộc đấu giá quyền sử dụng đất (Điều 3)
Khoản 2 quy định về Hội đồng đấu giá tài sản, nhưng khoản 2 Điều 3 của Thông tư 14 quy định về Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất, do đó đề nghị sửa lại cho phù hợp với Thông tư 14.
- Quỹ đất được sử dụng để đấu giá quyền sử dụng đất (Điều 4) và Điều kiện để tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất (Điều 5)
Điều 4 của Dự thảo đang nhắc lại khoản 1, 3 và 4 của Điều 4 Thông tư 14 (trừ trường hợp đất Nhà nước thu hồi đã được đề cập ở Phạm vi điều chỉnh của Dự thảo). Điều 5 của Dự thảo nhắc lại khoản 1 Điều 119 của Luật Đất đai 2013.
Đề nghị Quý Cơ quan xem xét không nhắc lại quy định này.
- Đăng ký tham gia đấu giá quyền sử dụng đất (Điều 6)
Điều 6 của Dự thảo gồm có 2 khoản: Đối tượng được tham gia đấu giá và đối tượng không được tham gia đấu giá quyền sử dụng đất. Do đó, đề nghị sửa tên Điều 6 thành “Điều kiện tham gia đấu giá quyền sử dụng đất”.
4.1. Đối tượng được tham gia đấu giá quyền sử dụng đất
Nội dung của Điều này đang nhắc lại khoản 3 Điều 58 của Luật Đất đai 2013 và Điều 14 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP nhưng chưa đầy đủ, dẫn đến nội dung chưa rõ ràng.
Ví dụ: điều kiện về đấu giá quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư: điểm b của khoản 1 Điều 6 quy định phải có năng lực tài chính, không vi phạm quy định của pháp luật về đất đai, phải thực hiện ký quỹ. Tuy nhiên, bên cạnh năng lực tài chính còn cần có thêm điều kiện về vốn, kỹ thuật.
Dự thảo quy định điều kiện “có vốn thuộc sở hữu của mình…” và “có khả năng huy động vốn” là còn chưa cụ thể, mà cần phải được chứng minh bằng hồ sơ, giấy tờ chứng minh vốn và cam kết của tổ chức tín dụng, ngân hàng, hoặc tổ chức, cá nhân khác về việc cho vay vốn, hoặc văn bản khác chứng minh khả năng huy động vốn để thực hiện dự án đầu tư. Do đó, đề nghị xem xét bổ sung những chi tiết này vào Dự thảo.
Dự thảo quy định điều kiện “Không vi phạm quy định của pháp luật về đất đai đối với trường hợp đang sử dụng đất do nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư khác. Sở Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm xác định nội dung này thông qua kết quả xử lý vi phạm pháp luật về đất đai đối với các dự án tại địa phương được lưu trữ tại Sở Tài nguyên và Môi trường; công bố trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Quản lý đất đai về tình trạng vi phạm pháp luật về đất đai đối với các dự án thuộc địa phương khác”, là chưa rõ, đề nghị làm gọn lại thành ”Không vi phạm quy định của pháp luật về đất đai đối với trường hợp đang sử dụng đất do Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư khác được công bố trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Quản lý đất đai, Sở Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân dân các quận, huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng”.
Điều kiện về ký quỹ đề nghị sửa lại cho gọn thành ”Kỹ quỹ sau khi trúng đấu giá theo quy định của pháp luật về đầu tư”.
Cần bổ sung điều kiện ”phải có Đơn đăng ký tham gia đấu giá (theo mẫu)” (mẫu này ban hành kèm theo Quy định này).
Việc thẩm định, xét duyệt điều kiện tham gia đấu giá quyền sử dụng đất: đề nghị tách thành một khoản riêng “Tổ chức thẩm định điều kiện thực hiện dự án đầu tư”.
Dự thảo đang quy định: “Việc thẩm định, xét duyệt các điều kiện tham gia đấu giá quyền sử dụng đất… được thực hiện như sau:
– Đơn vị tổ chức thực hiện việc đấu giá quyền sử dụng đất tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định thành lập Hội đồng thẩm định, xét duyệt. Thành phần tham gia Hội đồng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định…”.
Tuy nhiên, quy định này chưa rõ thời hạn để các cơ quan thực hiện công việc này. Do đó, đề nghị bổ sung quy định làm rõ để minh bạch trong khi thực hiện. Ví dụ như:
- Việc tổ chức thẩm định điều kiện thực hiện dự án đầu tư:
- a) Trước thời hạn kết thúc việc tiếp nhận hồ sơ 05 (năm) ngày làm việc, đơn vị thực hiện cuộc đấu giá có trách nhiệm báo cáo Sở Tài nguyên và Môi trường về ngày kết thúc nhận hồ sơ, để gửi giấy mời cho các tổ chức, cơ quan, đơn vị liên quan họp thẩm định điều kiện thực hiện dự án đầu tư. Về thành phần, thời gian và địa điểm họp do Sở Tài nguyên và Môi trường quyết định;
- b) Sau thời điểm kết thúc nhận hồ sơ không quá 1/2 (nửa) ngày làm việc, đơn vị thực hiện cuộc đấu giá phối hợp với đơn vị tổ chức thực hiện việc đấu giá cung cấp các hồ sơ có liên quan theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đến Sở Tài nguyên và Môi trường (thông qua Chi cục Quản lý đất đai);
- c) Trong thời gian không quá 02 (hai) ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các tổ chức, cơ quan, đơn vị có liên quan thẩm định điều kiện để thực hiện dự án đầu tư của người tham gia đấu giá quyền sử dụng đất;
- d) Sau khi có kết quả thẩm định (lập bằng Biên bản), Sở Tài nguyên và Môi trường gửi kết quả cho đơn vị thực hiện cuộc đấu giá để thông báo cho người đấu giá quyền sử dụng đất biết về kết quả thẩm định điều kiện để thực hiện dự án đầu tư trước thời điểm mở phiên đấu giá.
4.2. Đối tượng không được đăng ký tham gia đấu giá quyền sử dụng đất
Khoản 2 của Điều 6 này nhắc lại toàn bộ khoản 4 Điều 38 của Luật Đấu giá tài sản, đề nghị Quý Cơ quan xem xét không cần nhắc lại tại Dự thảo.
- Lập phương án đấu giá quyền sử dụng đất (Điều 7)
Điều 7 của Dự thảo đang nhắc lại toàn bộ Điều 6 của Thông tư 14 nhưng có chỗ thừa, có chỗ chưa đủ, ví dụ: thiếu quy định về tài sản gắn liền với các thửa đất đấu giá (nếu có), dẫn đến một loạt các quy định phía sau cũng không nhắc đến tài sản gắn liền với các thửa đất đấu giá.
Điểm đ quy định về hình thức đấu giá, phương thức đấu giá và bước giá áp dụng, quy định này là thừa vì điểm đ khoản 2 Điều Thông tư 14 chỉ quy định về hình thức đấu giá được áp dụng khi thực hiện cuộc bán đấu giá.
Điểm h của khoản 2 này đề cập tới Phương thức lựa chọn tổ chức đấu giá là thiếu so với quy định tại Thông tư 14, đó là Phương thức lựa chọn đơn vị thực hiện cuộc bán đấu giá (đấu thầu rộng rãi hoặc giao đơn vị cụ thể thực hiện) hoặc đề xuất thành lập Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất trong trường hợp đặc biệt (đối với trường hợp được thành lập Hội đồng đấu giá đặc biệt theo quy định). Do đó, đề nghị Quý Cơ quan rà soát quy định lại cho thống nhất với Thông tư 14.
- Quyết định đấu giá quyền sử dụng đất (Điều 9)
Điều 9 của Dự thảo quy định về hồ sơ thửa đất đấu giá và quyết định đấu giá quyền sử dụng đất. Quy định này nhắc lại khoản 7 của Thông tư 14. Tuy nhiên điểm b khoản 2 thiếu quy định liên quan tới tài sản gắn liền với đất (như đã góp ý ở trên).
Khoản 3 quy định về Quyết định đấu giá quyền sử dụng đất và nhắc lại toàn bộ Điều 8 của Thông tư 14 nhưng cũng thiếu “tài sản gắn liền với đất”. Đề nghị Quý Cơ quan rà soát quy định lại cho thống nhất.
- Lựa chọn, ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức đấu giá tài sản để thực hiện cuộc đấu giá (Điều 11)
Điều 11 của Dự thảo cần thống nhất với nội dung của Điều 10 Thông tư 14, cần bổ sung quy định về tổ chức đấu thầu rộng rãi để lựa chọn đơn vị thực hiện cuộc bán đấu giá theo phương án đã được phê duyệt, đơn vị tổ chức thực hiện việc đấu giá phải trình UBND cấp có thẩm quyền quyết định thành lập Tổ tư vấn đấu thầu để xây dựng và đánh giá hồ sơ mời thầu…
Điểm d khoản 2 đề cập đến tiêu chí lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản theo quy định tại Luật Đấu giá tài sản năm 2016, đồng thời nhắc lại Tiêu chí này tại khoản 4 là không cần thiết vì đã có quy định đầy đủ tại khoản 4 Điều 56 Luật Đấu giá tài sản. Do đó, đề nghị bỏ khoản 4.
- Tổ chức cuộc đấu giá và thực hiện giám sát cuộc đấu giá (Điều 12)
Quy định tại khoản 1 là không cần thiết, đề nghị bỏ. Khoản 2 nhắc lại khoản 2 Điều 11 của Thông tư 14 nhưng chưa chính xác. Đề nghị Quý Cơ quan rà soát quy định cho thống nhất.
- Phê duyệt kết quả đấu giá quyền sử dụng đất (Điều 13)
Nội dung Điều 9 quy định thủ tục và nội dung ban hành quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất nhưng chưa quy định về thời hạn để UBND tỉnh phê duyệt và ban hành quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ.
Do đó, đề nghị Quý Cơ quan bổ sung quy định này để đảm bảo tính minh bạch. Ví dụ như: Trong thời hạn không quá 02 (hai) ngày làm việc kể từ ngày nhận tờ trình và hồ sơ từ cơ quan tài nguyên và môi trường, Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền ban hành quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá.
Thời hạn để trình UBND cơ quan tài nguyên và môi trường trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền ban hành quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá (khoản 2) là 5 ngày là quá dài, đề nghị sửa thành “Trong thời hạn không quá 02 (hai) ngày làm việc kể từ ngày nhận Tờ trình và hồ sơ từ đơn vị tổ chức thực hiện việc đấu giá, cơ quan tài nguyên và môi trường trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền ban hành quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá”.
Hồ sơ ban hành quyết định công nhận và nội dung Quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất đang nhắc lại khoản 2 và khoản 3 của Điều 12 Thông tư 14 (nhưng không nhắc đến tài sản gắn liền với đất), đề nghị bỏ hai khoản này.
- Nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất sau khi trúng đấu giá (Điều 14)
Điều 14 nhắc lại khoản 1, 2 và 3 Điều 13 của Thông tư 14 nhưng có chỗ chưa thống nhất (tại khoản 1: cơ quan thuế là người gửi thông báo chứ không phải đơn vị tổ chức việc đấu giá phối hợp với cơ quan thuế gửi thông báo nộp tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất cho người trúng đấu giá).
Do đó, đề nghị bỏ Điều 14 này.
- Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao đất trên thực địa cho người trúng đấu giá (Điều 15)
Đề nghị quy định thống nhất với Điều 14 của Thông tư 14.
- Đấu giá quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất
Đề nghị Quý Cơ quan xem xét bổ sung thêm một Điều cho vấn đề này, đối với hai trường hợp:
- Tài sản gắn liền với đất sau khi đánh giá lại vẫn còn giá trị sử dụng và phù hợp với quy hoạch được phê duyệt;
- Tài sản gắn liền với đất sau khi đánh giá lại không còn giá trị sử dụng hoặc còn giá trí sử dụng nhưng không phù hợp với quy hoạch được phê duyệt.
- Về quy trình luân chuyển hồ sơ xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai và việc nộp tiền sử dụng đất sau khi có phê duyệt kết quả trúng đấu giá
Vấn đề xác định và thực hiện các nghĩa vụ tài chính là rất phức tạp. Do đó, đề nghị Quý Cơ quan xem xét bổ sung thêm một Điều để làm rõ vấn đề này và tham khảo thêm quy định tại Điều 15, 16 của Thông tư liên tịch số 88/2016/TTLT/BTC-BTNMT. Ví dụ:
- Căn cứ Quyết định phê duyệt kết quả trúng đấu giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người trúng đấu giá phải thực hiện việc kê khai và nộp Quyết định phê duyệt kết quả trúng đấu giá tại cơ quan văn phòng đăng ký đất đai. Thời hạn nộp hồ sơ tối đa không quá 05 (năm) ngày làm việc, kể từ ngày có Quyết định phê duyệt kết quả trúng đấu giá.
Quá thời hạn trên, người trúng đấu giá không thực hiện việc kê khai và nộp quyết định phê duyệt kết quả trúng đấu giá, cơ quan văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm chuyển thông tin cho cơ quan thuế để ban hành thông báo nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và các khoản nghĩa vụ tài chính khác (nếu có).
- Quy trình luân chuyển hồ sơ xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê được thực hiện theo quy định tại Điều 15 của Thông tư liên tịch số 88/2016/TTLT/BTC-BTNMT.
- Quy trình luân chuyển hồ sơ xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm được thực hiện theo quy định tại Điều 16 của Thông tư liên tịch số 88/2016/TTLT/BTC-BTNMT.
- Trong thời hạn không quá 03 (ba) ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ do cơ quan văn phòng đăng ký đất đai chuyển đến, cơ quan thuế có trách nhiệm thông báo cho người trúng đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thuê đất về nghĩa vụ tài chính.
- Nộp tiền trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất theo hình thức giao đất, cho thuê đất trả tiền một lần…
- Nộp tiền trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất theo hình thức thuê đất trả tiền hàng năm…
Trên đây là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Quyết định của UBND tỉnh ban hành Quy định đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Rất mong Quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo.
Trân trọng cảm ơn.
Nơi nhận:
– Như trên; – Văn phòng UBND tỉnh Cao Bằng; – Ban Thường trực (để b/c); – Lưu VT, PC. |
TL. CHỦ TỊCH KT. TRƯỞNG BAN PHÁP CHẾ PHÓ TRƯỞNG BAN
(đã ký) Phạm Ngọc Thạch |
Tài liệu đính kèm